Khi về đến nhà gặp Hoạn Thư thì Thúc Sinh quên tuốt luốt lời Thúy Kiều căn dặn "Đôi ta chút nghĩa đèo bòng, Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh", mà cứ lo...
TẨY TRẦN vui CHÉN THONG DONG,
Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra.
- TẨY TRẦN 洗塵 : là Rửa Bụi, là Rửa đi những bụi bặm trong bước đường dài. Ngày xưa, khi người đi xa về hoặc có bạn bè từ xa đến, thì chủ nhà thường làm một tiệc để đãi khách, gọi là TIỆC TẨY TRẦN.
- CHÉN THONG DONG là Chén rượu uống một cách thung dung nhàn nhã trong bữa tiệc tẩy trần. Và ...
Vì qúa thong dong mà Thúc Sinh " Nghĩ đà bưng kín miệng bình, Nào ai có khảo mà mình lại xưng ?" để đến nỗi Hoạn Thư cho bắt Thúy Kiều về làm Hoa Nô, và khi tưởng Kiều đã bị chết thiêu, Thúc lại " Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê" gặp lại Thúy Kiều đang là con hầu của Hoạn Thư thì mới tá hỏa rồi... khóc. Hoạn Thư hỏi thì nói dối là "...hiếu phục vừa xong" vừa mới hết tang mẹ, nên Hoạn Thư lại :
Khen rằng: Hiếu tử đã nên!
TẨY TRẦN mượn CHÉN GIẢI PHIỀN đêm thu.
- CHÉN GIẢI PHIỀN là Chén rượu uống để giải trừ phiền muộn buồn bã.
Thúc Sinh cứ ngỡ là nói dối xong thì đã yên chuyện, nào ngờ con vợ qủy quái bắt Thúy Kiều phải đứng hầu rượu để cho :
Vợ chồng CHÉN TẠC CHÉN THÙ,
Bắt nàng đứng chực Trì Hồ hai nơi.
- CHÉN TẠC CHÉN THÙ : TẠC 酢 là Mời Ngược, nên CHÉN TẠC là Chén rượu của người khác mời mình. THÙ 酬 là Mời khách, nên CHÉN THÙ là Chén rượu của mình mời người khác uống. Nên THÙ TẠC 酬酢 là Mời qua mời lại với nhau khi uống rượu.
- Nói thêm về từ TRÌ HỒ 持壺 : TRÌ là Cầm là Bưng; HỒ là Bình (rượu). Câu "Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi" là : Bắt Thúy Kiều cầm bình rượu đứng đó để rót rượu cho hai vợ chồng mời mọc lẫn nhau. Khiến cho :
Sinh càng như dại như ngây,
Giọt dài giọt vắn CHÉN ĐẦY CHÉN VƠI..
- CHÉN ĐẦY CHÉN VƠI là hết chén rượu nầy tới chén rượu khác, uống vương vãi hổ lốn.
Đến khi chịu hết nỗi, Thúc sinh mới "Cáo say chàng đã toan bài lảng ra", thì "Tiểu thư vội thét: Con Hoa! Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn". Làm cho :
Sinh càng nát ruột tan hồn,
CHÉN MỜI phải ngậm bồ hòn ráo ngay.
Trúng kế Hồ Tôn Hiến, sau khi Từ Hải đã chết đứng giữa chiến trường rồi, Thúy Kiều lại bị Hồ Tôn Hiến "Bắt nàng thị yến dưới màn" phải hầu rượu trong bửa tiệc và có lẽ đã phải "hầu" luôn Hồ Tôn Hiến trong đêm đó, vì cụ Nguyễn Du đã viết "Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình", và đến sáng hôm sau khi :
HẠ CÔNG CHÉN đã quá say,
Hồ công đến lúc rạng ngày tỉnh ra .
Nghĩ mình phương diện quốc gia,
Quan trên nhắm xuống người ta trông vào .
- HẠ CÔNG 賀功 : HẠ là Hỉ HẠ, là Ăn Mừng; CÔNG là Thành Công, ở đây là Thắng trận. Nên CHÉN HẠ CÔNG là Chén rượu ăn mừng khi thắng trận.
Đến khi nhờ Giác Duyên chỉ điểm tìm được Thúy Kiều và Vương Ông đã thuyết phục nàng phải về với gia đình, thì "Một nhà về đến quan nha, Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy". Lúc bấy giờ, khi :
Tàng tàng CHÉN CÚC dở say,
Đứng lên Vân mới giãi bày một hai.
Rằng trong tác hợp cơ trời ...
- CHÉN CÚC là Chén rượu được ủ bằng hoa cúc, là Cúc Tửu 菊酒. Thường thì rượu cúc thơm và nhe, nên các bà các cô hay uống thứ rượu nầy.
Khi Thúy Kiều đã bị mọi người trong nhà thuyết phục để nối lại duyên xưa với Kim Trọng, "Cùng nhau giao bái một nhà, Lễ đà đủ lễ đôi đà đủ đôi", để đưa đến :
Động phòng dìu dặt CHÉN MỒI,
Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa .
Những từ sen ngó đào tơ,
Mười lăm năm mới bây giờ là đây !
... và khi Kim Kiều đã cùng nhau thoả thuận không "động phòng" tối hôm đó, nhưng lại :
Thêm nến giá nối hương bình,
Cùng nhau lại chuốc CHÉN QUỲNH giao hoan .
- CHÉN QUỲNH là CHÉN QUỲNH TƯƠNG 瓊漿 : là loại rượu được ủ bằng trái cây cho lên men, nên có màu lóng lánh như đá qúy QUỲNH DAO. Quỳnh Tương 瓊漿 là rượu trái cây, rượu cocktail của hiện nay đó. Trong truyện Nôm Tây Sương Ký khi tả cảnh Thôi Oanh Oanh thất thân với Trương Quân Thụy cũng đã có câu :
CHÉN QUỲNH sóng sánh hồng nhan,
Sẵn chăn phỉ thúy sẵn màn phù dung.
- CHÉN QUỲNH còn có nghĩa là Chén uống rượu được làm bằng đá quý Quỳnh Dao, gọi là QUỲNH BÔI 瓊杯: là Ly uống rượu làm bằng ngọc quỳnh. Như trong truyện thơ Nôm Lâm Tuyền Kỳ Ngộ (Bạch Viên Tôn Các) :
Đào mai đua mặt dâng câu gấm,
Thông cúc dang tay chuốc CHÉN QUỲNH.
Nói thêm về rượu Quỳnh Tương, gọi cho đủ tên là NGỌC DỊCH QUỲNH TƯƠNG hay là QUỲNH TƯƠNG NGỌC DỊCH 瓊漿玉液 là thứ dung dịch được tan chảy ra từ ngọc hay được chế biến từ các loại ngọc. Theo thần thoại Trung Hoa cổ đại, đây là loại thức uống của các thần tiên, nên người thường uống vào có thể thành thần tiên được. Theo Sở Từ 楚辭, chương《Cửu Tư. Tật Thế 九思·疾世》của Vương Dật đời Hán có câu :"Duyện Ngọc Dịch hề chỉ khát, giảo chi hoa hề liệu cơ 吮玉液兮止渴,嚙芝華兮療饑". Có nghĩa : Nút dung dịch của ngọc để giải khát, Nhai hoa của nấm Linh chi để đỡ đói. Chỉ đời sống của các thần tiên trong núi. Lại có thuyết cho rằng QUỲNH TƯƠNG NGỌC DỊCH 瓊漿玉液 là thứ rượu được ũ bằng các loại trái cây qúy hiếm mà bà Tây Vương Mẫu dùng để đãi khách trong tiệc Hội Bàn Đào.
Trong tích Lam Kiều (Cầu Lam) Chàng thư sinh lạc đệ Bùi Hàng 裴航 gặp Phàn phu nhân hồi âm cho bài thơ dự đoán trước tình duyên của chàng với Vân Anh như sau :
一飲瓊漿百感生, Nhất ẩm quỳnh tương bách cảm sanh,
玄霜搗盡見雲英。 Huyền sương đão tận kiến Vân Anh.
藍橋便是神仙窟, Lam Kiều tiện thị thần tiên quật.
何必崎嶇上玉京? Hà tất khi khu thướng Ngọc Kinh ?
Có nghĩa :
Một chén quỳnh tương trăm cảm sanh,
Chày sương giã thuốc gặp Vân Anh.
Lam Kiều chốn ấy thần tiên ngụ,
Sao phải gập ghềnh đến Ngọc Kinh ?!
Tất cả gồm 20 chữ CHÉN trên đây đều chỉ CHÉN RƯỢU, mặc dù không có từ RƯỢU đi kèm, nhưng mọi người đều hiểu đó là CHÉN RƯỢU, và đó cũng là một trong những cách dùng chữ tài tình của Truyện Kiều, của cụ Nguyễn Du. Ở cuối tác phẩm, cụ mới cho một từ CHÉN RƯỢU xuất hiện hiên ngang để kết thúc cho một cuộc tình có hậu, một tác phẩm có hậu theo kiểu cổ điển xưa là "Văn dĩ tải đạo"; Cuối cùng rồi những người tốt cũng sẽ có được hoàn cảnh tốt "Duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi dào" như cảnh Kim Kiều tái hợp vậy :
Khi CHÉN RƯỢU khi cuộc cờ,
Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên.
Ba sinh đã phỉ mười nguyền,
Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy !...
Có tất cả "21 CHÉN" trong truyện Kiều từ đầu bài viết cho đến cuối là :
1. Chén Xuân 2. Chén Hà 3. Chén Thề
4. Chén Khuyên 5. Chén Đồng 6. Chén Quan Hà
7. Chén Đưa 8. Chén Mừng 9. Chén Tẩy Trần
10. Chén Thong Dong 11. Chén Giải Phiền 12. Chén Tạc
13. Chén Thù 14. Chén Đầy 15. Chén Vơi
16. Chén Mời 17. Chén Hạ Công 18. Chén Cúc
19. Chén Mồi 20. Chén Quỳnh
... và cuối cùng là CHÉN RƯỢU !
Xin được kết thúc tất cả các "CHÉN trong Truyện Kiều" ở đây.
Hẹn bài viết tới !
杜紹德
ĐỖ CHIÊU ĐỨC